Bài thu hoạch “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2022 (st)
Người đăng: Ngày đăng: Lượt xem:
Cuộc thi tìm hiểu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2022
Bài thu hoạch “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2022 giúp các bạn tham khảo, có thêm nhiều kiến thức, ý tưởng mới để hoàn thiện bài thu hoạch tư tưởng Hồ Chí Minh năm 2022.
Bài thu hoạch Cuộc thi “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2022
Câu 1: Trình bày tóm tắt những nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh?
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất, chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc. Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng. Người không chỉ đấu tranh, mưu cầu cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trên con đường phát triển đi lên của đất nước từ ngày có Đảng càng khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06, ngày 7-11- 2006 về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Bộ Chính trị khóa XI ban hành Chỉ thị 03, ngày 14-5-2011 về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc triển khai thực hiện các chỉ thị nêu trên đã đạt những kết quả bước đầu quan trọng. 5 năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản cụ thể hóa Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị cho thấy sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời, nghiêm túc của cả hệ thống chính trị một cách hiệu quả. Việc học tập, nghiên cứu các chuyên đề đã nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức mở rộng thêm nội dung, gắn với tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bám sát hơn những điều kiện thực tế, đặc điểm, nhiệm vụ của địa phương cơ quan, đơn vị, phù hợp với từng đối tượng, vị trí công tác, tạo chuyển biến bước đầu về tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quá trình thực hiện Chỉ thị số 03 góp phần quan trọng vào kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở các đơn vị, địa phương; nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc, tồn đọng, yếu kém kéo dài ở cơ sở được giải quyết. Song, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục đích, yêu cầu của Chỉ thị 03 đối với công tác xây dựng Đảng. Ở nhiều nơi, việc thực hiện Chỉ thị chưa trở thành việc làm thường xuyên, tự giác; kết quả thực hiện còn hạn chế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn,…
Nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Một lần nữa, Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định đây là chủ trương lớn của Đảng ta, vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài.
Học tập và nghiên cứu nội dung Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, bản thân tôi nhận thức và quán triệt được về tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là:
1. Về tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, được thể hiện 9 vấn đề lớn, đó là: Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng đất nước thật sự của dân, do dân và vì dân; Về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; Về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của những năm bôn ba, lăn lộn trong hoạt động thực tiễn, nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Từ đó, Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo lớn, đặc sắc về lý luận, hiện thực hoá, làm phong phú, giàu có Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống tri thức tổng hợp với các chuyên ngành Khoa học xã hội và nhân văn, theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, cần tập trung đẩy mạnh học tập và làm theo các nội dung cốt yếu nhất, gắn liền với những nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh theo tinh thần nghị quyết Đại hội XII của Đảng như: (1) Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiến tạo một xã hội vì con người và các giá trị làm người; (2) Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; (3) Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam, hình thành một Chính phủ kiến tạo, liêm khiết, quản trị tốt và giải trình trách nhiệm trước nhân dân; (4) Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính sách xã hội trong điều kiện Việt Nam; (5) Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá con người Việt Nam; (6) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Đặc biệt, cần chú trọng nắm bắt cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập, tự do, hạnh phúc. Đây chính là giá trị nền móng phát triển bền vững, có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi.
2. Về đạo đức Hồ Chí Minh:
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng, với những phẩm chất tiêu biểu là: tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,…; là sự kết hợp đạo đức truyền thống của dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là hiện thân của sự hoàn thiện, hoàn mỹ về đạo đức.
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không chỉ để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Trong đó, theo Người đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Đức là gốc, những đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau; người cách mạng phải có cả đức và tài mới hoàn thành được trọng trách Đảng và nhân dân giao cho.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một biểu tượng trong sáng, cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm gương sáng, về lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt; sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm:
3. Về phong cách Hồ Chí Minh:
Phong cách Hồ Chí Minh, phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương,…
Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một tấm gương vô cùng trong sáng và cao thượng, kết tinh của tinh hoa văn hoá Việt Nam. Người không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc về văn hoá, sáng tạo ra một nền văn hoá mới, văn hoá cách mạng Việt Nam, kiến tạo ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của văn hoá dân tộc, mà chính bản thân Người, cuộc sống của Người, những việc làm bình thường hằng ngày của Người là hiện thân của nền văn hoá Việt Nam, là mẫu mực của con người Việt Nam. Tư tưởng, tâm hồn, cốt cách của Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết tinh những giá trị văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Như vậy, so với các Chỉ thị trước đây của Bộ Chính trị, Chỉ thị 05 có nội dung rộng lớn và phong phú hơn, yêu cầu cao hơn, không chỉ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mà còn bao hàm cả nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Việc học tập và làm theo Người là rất quan trọng và cần thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chỉ thị khẳng định: “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
Câu 2: Đồng chí hãy phân tích những nội dung cơ bản của xây dựng phong cách làm việc của cán bộ đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh? Liên hệ thực tế việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh của bản thân, cơ quan, đơn vị. Đề xuất giải pháp trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cơ quan, đơn vị?
a/ Xây dựng phong cách làm việc của cán bộ đảng viên theo tư tưởng đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh
– Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, bao gồm một số nội dung chính là: phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt.
– Phong cách làm việc dân chủ đó là phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Đi đúng đường lối quần chúng,“lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”;Tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cho tốt và Nêu gương.
chính là làm việc khoa học; làm việc có kế hoạch; làm việc đúng giờ; đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường mòn.
– Phong cách làm việc quần chúng: khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp; Chân tình, nồng hậu, tự nhiên; Linh hoạt, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi khoảng cách. Đối với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động linh hoạt lại vừa ân cần, tế nhị, bình dị, tự nhiên đến mức hồn nhiên, làm cho bất cứ ai được gặp Người đều thấy không khí chan hòa, ấm cúng, thoải mái, không cảm thấy sự cách biệt giữa lãnh tụ và quần chúng.
– Phong cách làm việc khoa học không ngừng trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ để ngày càng làm tốt hơn nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia các cuộc vận động học tập và làm theo gương Bác. Hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng, Đoàn giao phó. Bản thân luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng kỷ luật nhà trường, không trục lợi cá nhân, dù ở bất cứ cương vị nào cũng luôn gần gũi với mọi người, học tập những người xung quanh để ngày một tiến bộ
– Phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm : luôn có tinh thần xây dựng một tập thể đoàn kết, biết cộng đồng trách nhiệm, biết yêu thương giúp đỡ nhau thì chắc chắn tập thể đó sẽ vững mạnh và sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
b/ Liên hệ với bản thân: Là một đảng viên, giáo viên với nhiệm vụ giảng dạy được nhà trường phân công, tôi nhận thấy cần phải gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những việc làm cơ bản sau:
* Về tư tưởng chính trị:
– Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng;
– Tin tưởng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
– Chấp hành tốt mọi chủ chương đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
– Tích cực đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt;
– Gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
– Bản thân luôn tích cực tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu để tự học; tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng do nhà trường và cấp trên tổ chức, có ý thức học hỏi bạn bè đồng nghiệp để không ngừng nâng cao trình độ lý luận chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác.
* Về phẩm chất đạo đức, lối sống:
– Thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có tinh thần hợp tác, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp;
– Thực hành tiết kiệm, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, nói không đi đôi với làm, lợi dụng chức vụ để thu vén lợi ích cho bản thân và gia đình;
– Bản thân luôn giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên; thực hiện tốt các Quy định của Ban chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm;
– Bản thân luôn nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần phục nhân dân; giải quyết tốt các đề xuất, kiến nghị về quyền và lợi ích chính đáng của đảng viên và quần chúng trong đơn vị tổ; tích cực đấu tranh với các biểu hiện vô cảm, quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân
– Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, thẳng thắn, sống sống đoàn kết tập thể, hoà nhã, gần gũi với bạn bè đồng nghiệp và nhân dân nơi cư trú. Quan hệ mật thiết với nhân dân. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở;
– Có ý thức trong tự phê bình và phê bình; biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác; tích cực đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè .
c/ Đề xuất những giải pháp, ý tưởng:
Để xây dựng được mối đoàn kết nội bộ theo tôi chúng ta cần Đặt lợi ích tập thể lên đầu. Sự đoàn kết, thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình và yêu mến công việc hơn.
Ngay từ đầu năm học mỗi đoàn thể phải xây dựng cho mình kế hoạch làm việc của năm và phân định công việc cụ thể cho từng tháng, từng kì. Việc xây dựng kế hoạch phải sát với tình hình thực tế, không qua loa, đại khái hay chung chung, có sự phân định trách nhiệm công việc rõ ràng, phân đúng người, đúng việc dựa theo khả năng, sở trường của mỗi người như vậy hiệu quả công việc sẽ cao. Sự rạch ròi trong công việc sẽ khiến mỗi người có trách nhiệm hơn trong công việc của mình, tránh được tình trạng đổ lỗi cho nhau. Dù cá nhân hay tập thể đều phải biết lắng nghe ý kiến đóng góp để tìm ra cái đúng, cái hay mà sửa chữa để hoàn thiện mình.
Mỗi đảng viên chúng ta rất cần thấm nhuần và học theo những phong cách trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ cần một lời chào chân tình, một nụ cười niềm nở, một cử chỉ vượt ngoài quy cách thông thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xóa bỏ mọi cách biệt về chức vụ, địa vị, giữa cấp trên cấp dưới, giữa lãnh tụ với nhân dân; đem đến cho mọi người ý thức về sự bình đẳng hoàn toàn. Mỗi chúng ta ai ai cũng cần học bác những đức tính tốt đẹp ấy trong cơ quan đơn vị cũng như với anh em người thân, bà con lối xóm…
Người luôn luôn thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng, khoan dung, khiêm nhường, độ lượng với con người. Chính vì vậy mà sức cuốn hút, cảm hóa, cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúc mọi người hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống và công tác. Cách ứng xử không chỉ dừng lại ở tình thương yêu và sự quan tâm Người dành cho các đối tượng trong giao tiếp, mà nó còn thể hiện thông qua sự nêu gương của Người. Sinh thời, khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói , Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân diệt “giặc đói” bằng một hành động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo đó cứu những người bị đói và chính Người đã gương mẫu nghiêm túc thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập theo gương bác là là niềm vinh dự tự hào đối với mỗi cán bộ đảng viên và mỗi người dân Việt Nam.
Đối với bản thân là một Đảng viên, học theo gương Bác là một nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là con cháu của Bác. Nhận biết được điều đó bản thân tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về phẩm chất đạo đức, biết kính trên nhường dưới, cư xử đúng mực, hòa nhã với đồng nghiệp, người thân, bà con lối xóm,; Đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ những người có hoàn cảnh đặc biệt; không kiêu căng, tự cao, tự đại trong mọi trường hợp, đặc biệt không tham gia vào các tệ nạn xã hội, là tấm gương cho con cái noi theo
Học tập đạo đức của Bác Hồ, chúng ta còn có thể học tập qua chính những tấm gương đồng nghiệp, bè bạn xung quanh. Và hãy để việc học tập đó đi vào chính cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta chứ không phải là những hoạt động có tính chất phong trào. Bởi học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là để giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn
Hôm nay, chúng ta học theo Bác, làm theo Bác chính là học tập và rèn luyện để có một cái Tâm trong sáng. Yêu Bác, học Bác để lòng ta trong sáng hơn, để lòng ta hòa chung với những tâm tư, trăn trở, nỗi niềm của nhân dân, của dân tộc.
Tôi tin, sống giản dị như Bác, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác để thấy một Việt Nam vững vàng phát triển ở ngày mai. Là những đảng viên, cánh tay phải của xã hội, chúng ta cần học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Đó không chỉ là trách nhiệm của cá nhân tôi, cá nhân chúng ta, mà còn vì vận mệnh của đất nước Việt Nam. Sống giản dị như Bác còn là để trả ơn cuộc đời, trả ơn những máu và nước mắt của các thế hệ cha anh đã ngã xuống cho tự do, độc lập hôm nay.
Câu hỏi tham khảo dự thi “Tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2022
Câu 1: Hãy nêu các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng? Trình bày nguyên tắc tự phê bình và phê bình?
Gợi ý trả lời:
1. Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
- Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
- Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
- Phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trên cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
- Trong phê bình và tự phê bình phải thật thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyết điểm.
- Phê bình và tự phê bình là vấn đề khoa học và là nghệ thuật. Vấn đề không phải chỉ luôn luôn dùng mà còn phải khéo dùng cách phê bình và tự phê bình.
- Cán bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Phải tuyệt đối chống các biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình như: thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, hoặc ngược lại, lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
Tóm lại tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào Đảng. Cá nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, xấu, thiện, ác trong lòng. Con người ta không phải là thánh thần, ai cũng có khuyết điểm cả. Vì vậy, tự phê bình và phê bình giống như việc rửa mặt hằng ngày, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi. Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm giống như người có bệnh. Vì vậy phải uống thuốc. Tự phê bình là thuốc đắng nhưng giã tật. Ngược lại nếu không tự phê bình thì như người có bệnh mà không uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thê là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1). Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến bộ, để chữa các bệnh trong Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững và củng cố uy tín của Đảng.
Câu 2: Hãy nêu những phẩm chất đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Làm rõ phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư?
Gợi ý trả lời:
1. Những phẩm chất đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
- Trung với nước, hiếu với dân.
- Yêu thương quý trọng con người, sống có tình có nghĩa.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Chủ nghĩa quốc tế trong sáng, thủy chung.
2. Phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đòi hỏi con người phải rèn luyện tu dưỡng.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là tứ đức của con người, là 4 đức tính của con người, thiếu 1 đức tính thì không phải là con người. Bác ví 4 đức tính của con người như là 4 mùa của trời, 4 phương của đất.
- Cần, kiệm: luôn đi liền với nhau, “Cần mà không kiệm như gió thổi vào nhà trống. Kiệm mà không cần thì không bao giờ giàu”. Bác nói “Cần mà không kiệm như thùng không đáy. Kiệm mà không cần như thùng nước đầy chỉ lấy ra dùng mà không bao giờ bổ sung vào”.
- Cần: là lao động cần cù chịu khó, siêng năng, lao động có kế hoạch,có sáng tạo để đạt năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại. Cần phải gắn liền với chuyên.
- Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của cải, tiết kiệm tiền của dân, của nước và bản thân, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ, hoang phí không phô trương, hình thức nhưng không bủn xỉn.
- Liêm: luôn tôn trọng và giữ gìn của công, của dân, không xâm phạm lợi ích của nước, của dân, trong sạch, không màng công danh, không ưa địa vị, không thích người khác tâng bốc mình.
- Chính: không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao, tự đại, khiêm tốn, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân. Đối với người: không nịnh hót người trên, không coi thường người dưới, chân thành thật thà, khiêm tốn, không dối trá lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên việc nhà, quyết tâm hoàn thành việc dù khó khăn, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
- Chí công vô tư: là công bằng, công tâm, không thiên vị. Con người phải giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân – tập thể, cá nhân – quốc gia, dân tộc, đất nước, có nghĩa là phải biết đặt lợi ích của mình trong lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích cá nhân phục tùng lợi ích quốc gia tùy tình hình cụ thể.
Câu 3: Trình bày các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời:
Hồ Chí Minh nêu lên 3 nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình làm tấm gương để giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, Nhân dân cùng thực hiện.
1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương người tốt việc tốt
- Hồ Chí Minh chỉ rõ: đối với mỗi người lời nói phải đi đôi với việc làm thì hiệu quả mới mang lại thiết thực, hoặc nói mà không làm, nói 1 đằng làm 1 nẻo sẽ không hiệu quả phản tác dụng.
- Cần chống thói đạo đức giả, mị dân, dùng lời nói để đỡ chân tay, luôn dối trá lừa lọc.
- Hồ Chí Minh cho rằng 1 tấm gương sống có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền. Vì vậy cần xây dựng những tấm gương người tốt việc tốt, đây là việc làm rất quan trọng nhưng nêu gương đạo đức cũng phải chú trọng tính chất phổ biến vững chắc của toàn xã hội.
2. Xây đi đôi với chống
- Hồ Chí Minh cho rằng trong Đảng và mỗi con người không phải “người người đều tốt, việc việc đều hay”, mà mỗi người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Mặt khác trong cuộc đấu tranh cách mạng kẻ thù luôn tìm cách chống phá vì vậy phải kiên quyết đấu tranh chống lại cái xấu cái ác, bồi dưỡng và phát triển cái thiện cái tốt đẹp cho xã hội.
- Xây là giáo dục phẩm chất đạo đức mới nhưng phải chú ý phù hợp với lứa tuổi ngành nghề với giai cấp trong từng môi trường khác nhau, chú ý tới từng giai đoạn từng nhiệm vụ cách mạng.
- Chống là xử lý nghiêm là nhằm xây, đi liền với xây và muốn xây thì phải chống trong đó xây là nhiệm vụ chủ yếu lâu dài.
- Xây dựng đạo đức có nhiều cách làm nhưng trước hết mỗi người phải có ý thức tự giác, trau dồi đạo đức cách mạng, đồng thời phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
3. Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Hồ Chí Minh chỉ rõ: việc rèn luyện, tu dưỡng bền bỉ suốt đời phải như công việc rửa mặt hàng ngày. Bác viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” (HCM: Toàn tập, t.11, tr.612)
- Tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững đạo đức cách mạng cũng như phải trường kỳ, gian khổ. Theo bác, bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ không phải là một việc dễ dàng nhưng dù khó khăn gian khổ nếu quyết tâm thì nhất định thành công.
- Bác nhấn mạnh: cái ác luôn ẩn nấp trong mỗi người. Vì vậy, không được xao nhãng việc tu dưỡng, mà phải rèn luyện suốt đời, bền bỉ. Đặc biệt, trong thời kỳ hòa bình, khi con người đã có ít quyền hạn, nếu không có ý thức sâu sắc điều này dễ bị tha hóa, biến chất.
- Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy tu dưỡng đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi người.
Câu 4: Hãy cho biết những phong cách chủ yếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Làm rõ “Phong cách ứng xử” của Người?
Gợi ý trả lời:
1. Những phong cách chủ yếu của Hồ Chí Minh:
- Phong cách tư duy.
- Phong cách làm việc.
- Phong cách diễn đạt.
- Phong cách ứng xử.
- Phong cách sống.
2. Phong cách ứng xử:
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh có các đặc trưng cơ bản sau đây: Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp. Trong các cuộc tiếp xúc, Người thường khiêm tốn, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác, mà trái lại, luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những người xung quanh.
Câu 5: Nêu những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh? Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam?
Trả lời:
1. Những Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người:
+ Về vấn đề dân tộc thuộc địa
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa đầu thế kỷ XX là xác định đúng con đường phát triển của dân tộc. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa. Quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
+ Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc
Người khẳng định: vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Độc lập dân tộc mà chưa giành được thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.
+ Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và con người được khẳng định trước toàn thế giới qua Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người khởi thảo. Thừa nhận những “lời bất hủ” trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) và “những lẽ phải không thể chối cãi được” của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1). Nâng quyền tự nhiên của con người lên thành quyền dân tộc và gắn chặt quyền con người với quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng cho một trật tự và pháp lý quốc tế mới về quyền con người, quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các quốc gia – dân tộc.
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
+ Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để Nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
+ Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng Nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ.