Những trai làng chít khăn mỏ quạ
Lễ hội đình – đền Chèm vừa diễn ra ngày 13-15/6/2022 (tức 14-16/5 âm lịch) ở đình Chèm, phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đình Chèm (hay còn gọi là đền Chèm) thờ Đức Ông Lý Ông Trọng (người có công lớn với hai triều đại Hùng Duệ Vương và An Dương Vương. Ông cũng là nhà ngoại giao đầu tiên của dân tộc, khi được cử đi sứ sang nước Tần giúp vua Tần dẹp yên sự quấy nhiễu của quân Hung Nô) cùng Đức Bà Bạch Tĩnh Cung và ông Sứ Nguyễn Văn Chất. Lễ hội đình Chèm được tổ chức nhằm kỷ niệm ngày thắng trận khải hoàn mở hội mừng công và làm lễ cầu siêu cho các tướng sĩ của Đức thánh Lý Ông Trọng. Tín ngưỡng thờ Ông Trọng được xem là một trong những tín ngưỡng cổ nhất tại đất Kinh kỳ. Vì thế nhắc đến Hội Chèm trong dân gian vẫn có câu: “Thứ nhất là hội Cổ Loa, thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm”.
Lễ hội có sự tham gia của nhân dân 3 làng: Thụy Phương, Hoàng Xá, Hoàng Liên. Hội Chèm có nghi lễ đặc trưng như: lễ rước nước trên sông Hồng có sự tham gia của hơn 100 người với đội múa rồng, đánh trống, đánh chiêng, rước kiệu.
Điều độc đáo của lễ hội Chèm, đội quân phù giá là trai làng khỏe mạnh, mặc váy, đeo thắt lưng, khăn đội đầu, che mặt màu đỏ, khiêng kiệu Ông và kiệu Bà. Khi làm lễ, ông tiểu hiệu sẽ hô hiệu lệnh để mọi người làm theo, đồng thời cũng tùy từng hoàn cảnh để hô cho đúng. Tiểu hiệu hô “khoan thanh”, những người phù giá phải dùng quạt che miệng reo “ù chóe, ù chóe, ù chóe”.
Ngày 17/6/2016, lễ hội đình Chèm đã được Bộ VHTTDL trao bằng công nhận là Văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Điều độc đáo của lễ hội Chèm là sự tham gia những trai làng khỏe mạnh, mặc váy, đeo thắt lưng, khăn đội đầu. |
Cũng như lễ hội Chèm, lễ hội Triều Khúc gây ấn tượng không kém khi trai làng Triều Khúc tô son điểm phấn, mặc váy áo “con đĩ đánh bồng” ở lễ hội của làng. Lễ hội chính kéo dài từ ngày mồng 9 đến 12 tháng giêng âm lịch, nhằm tôn vinh vị anh hùng dân tộc Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng). Tất cả nam thanh niên đều được mặc váy yếm đào, trang điểm khăn mỏ quạ y như những người con gái thôn quê. Phía trước bụng mỗi người đeo một cái trống dài gọi là trống bồng. Lúc biểu diễn, nam diễn viên vừa dùng hai tay đánh trống “bung bung” vào hai bên trống và nhảy múa uốn éo, lẳng lơ, đưa tình, bông đùa nhằm gây tiếng cười thoải mái, tạo sự chú ý cho người khác. Mỗi lượt múa, 6 chàng trai mặc váy yếm đào, chít khăn mỏ quạ, điểm phấn son, giả làm con gái nhảy múa cặp đôi với nhau.
Khi biểu diễn, các chàng phải nhảy múa uốn éo, thể hiện sự lẳng lơ, bông đùa để gây sự chú ý của người xung quanh. Chính vì vậy, mới có câu dân gian: “Lẳng lơ như con đĩ đánh bồng!” mà ngày nay người Hà Nội hay nói đến. Động tác múa được cách điệu từ đời sống nông nghiệp của cư dân xưa, điệu múa cổ này vừa là nghi lễ, vừa là để dân làng cười vui, xóa tan mệt mỏi thường nhật.
Di sản văn hóa hiếm có ở mảnh đất kinh kỳ
Hà Nội là một trong những thành phố có nhiều lễ hội nhất cả nước. Theo đó trên toàn thành phố có hơn 1.000 lễ hội với các chủ đề, quy mô và hình thức khác nhau. Hà Nội vốn là mảnh đất văn hiến với lịch sử hàng ngàn năm. Bên cạnh đó Hà thành còn là nơi tập trung sự giao thoa văn hóa đậm đặc của Việt Nam với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Bởi vậy dễ hiểu vì sao Hà Nội lại có nền văn hóa đậm nét với nhiều lễ hội đến vậy.
Lễ hội ở Hà Nội không vượt ra ngoài quy thức của văn hoá Việt cổ là nông nghiệp – nông thôn – nông dân, đặc biệt là tích hợp nhiều lớp tín ngưỡng nguyên thuỷ – ẩn tàng sâu xa đến những tín ngưỡng tôn thờ danh nhân, tín ngưỡng tôn giáo ngoại lai du nhập không mấy cổ xưa, lại được phong kiến hoá, lịch sử hoá, nhiều khi đi quá xa ý nghĩa khởi nguyên.
Năm 2016, Hà Nội đã hoàn tất việc thống kê số lễ hội trong thành phố. Để bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của dân tộc nói chung và nhất là của Thăng Long – Hà Nội nói riêng, Hà Nội đã và đang bảo tồn lễ hội gắn với di tích mang đậm nét bản sắc văn hoá Việt Nam.
Thực tế nhiều năm qua, ở Hà Nội hầu hết các lễ hội cổ truyền đã được sự quan tâm của các cấp chính quyền. Kết quả mà các lễ hội đem lại đã tạo điều kiện cho việc giáo dục đạo đức, nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân, đồng thời, tạo điều kiện cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích hiệu quả hơn, tránh được tình trạng di tích bị hư hỏng; các lễ nghi, tập tục, trò diễn xướng dân gian truyền thống bị mai một, thất truyền. Qua đó, nhiều lễ thức đặc biệt mang đậm bản sắc văn hoá Việt được tái hiện, bảo tồn, tạo nên sắc thái riêng của Lễ hội Thăng Long – Hà Nội.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ hiện nay, di sản văn hóa đã và đang là nhân tố cơ bản lan tỏa các giá trị cốt lõi, được coi là trọng điểm trong chiến lược phát triển văn hóa mỗi quốc gia. Bất kỳ một quốc gia nào giữ gìn được bản sắc văn hóa thì quốc gia đó sẽ phát triển. Việt Nam chúng ta coi những di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể là sản nghiệp văn hóa. Chính vì thế vấn đề giữ gìn di sản văn hóa phi vật thể trong đó có các lễ hội là nhiệm vụ quan trọng được Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 và Hội nghị văn hóa toàn quốc tháng 11/2021 đề ra.
Với Hà Nội, lễ hội truyền thống của Thăng Long – Hà Nội thực sự là những hoạt động văn hoá tinh thần bổ ích, lý thú. Người trẩy hội có dịp nhớ cội nguồn, hiểu thêm về vùng đất ngàn năm văn hiến, tự hào về truyền thống văn hoá của Thủ đô. Bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống ở Hà Nội chính là góp phần bảo vệ tài sản văn hoá phi vật thể vô giá của đất nước.